Thực đơn
Tháng Tháng trong các loại lịchCác loại lịch như lịch Hellenic, âm dương lịch Do Thái và âm lịch Hồi giáo bắt đầu tháng bằng sự xuất hiện của mảnh trăng lưỡi liềm non đầu tiên của trăng mới.
Tuy nhiên, chuyển động của Mặt Trăng trên quỹ đạo của nó là rất phức tạp và chu kỳ của nó không phải là một hằng số. Ngày và thời gian của quan sát thực tế này phụ thuộc vào kinh độ cũng như vĩ độ địa lý của người quan sát, các điều kiện khí quyển (có hay không có mây, mưa v.v.), thị lực của người quan sát v.v. Vì thế sự bắt đầu và độ dài các tháng trong các loại lịch này không thể dự báo chính xác.
Trong khi một số người, như những người theo phong trào Do Thái giáo Karaite vẫn còn dựa trên các quan sát trăng thực tế thì phần lớn những người khác đã chuyển sang dùng dương lịch Gregory.
Lịch Gregory, tương tự như lịch Julius có trước nó, đều có 12 tháng:
Độ dài trung bình của tháng trong lịch Gregory là 30,4167 ngày hay 4,345 tuần trong năm thường và 30,5 ngày hay 4,357 tuần trong năm nhuận, hay 30,436875 ngày trong tháng Gregory trung bình tổng thể (365,2425 ÷ 12).
Các tháng tồn tại trong lịch La Mã trong quá khứ bao gồm:
Phần lồi lên của các khớp của 4 ngón tay trên cả hai bàn tay (trừ ngón trỏ) và khoảng lõm xuống giữa chúng có thể sử dụng để giúp ghi nhớ độ dài các tháng. Bằng cách coi tháng 1 là phần lồi lên ở ngón út bất kỳ và sắp xếp các tháng lần lượt vào các phần lồi lên và lõm xuống trên các ngón tay này cho tới khi đạt được tới phần lồi lên của ngón trỏ trên một bàn tay (tháng 7 ở tại vị trí đó) thì chuyển ngay sang phần lồi lên của ngón trỏ tại bàn tay kia hoặc tiếp tục đặt tháng 8 lên phần lồi lên đó và tiếp tục đặt lùi dần về (qua ngón giữa, tới phần lồi lên của ngón áp út) thì tất cả các tháng nằm tại phần lồi lên sẽ có 31 ngày (gồm tháng 1, 3, 5, 7, 8, 10, 12) còn các tháng tại phần lõm xuống thì chỉ có 30 ngày (gồm tháng 4, 6, 9, 11) hoặc 28/29 ngày (tháng 2). Kiểu ghi nhớ tự nhiên này đã được dạy tại nhiều trường tiểu học trong nhiều thập niên[2]
Trong lịch La Mã có 3 khái niệm là kalendae, nonae và idūs. Idūs là ngày thứ mười ba trong tám tháng, trừ các tháng 3, 5, 7 và 10 thì nó rơi vào ngày thứ mười lăm. Idūs được cho là có nguồn gốc là ngày trăng tròn. Nonae luôn luôn là 8 ngày trước idūs, nghĩa là rơi vào ngày thứ năm hay bảy, được cho là ngày có trăng bán nguyệt kể từ đầu tháng. Kalendae luôn luôn là ngày đầu tiên của tháng và nó được cho là có nguồn gốc là ngày đầu tiên khi có trăng mới.
Lịch Do Thái có 12 hay 13 tháng.
Adar 1 chỉ được thêm vào có 7 lần trong 19 năm. Trong các năm thường, Adar 2 được gọi đơn giản là Adar.
Lịch này được đề xuất trong thời kỳ Cách mạng Pháp, và được chính quyền cộng hòa tại Pháp khi đó sử dụng trong khoảng 12 năm từ cuối năm 1793. Trong lịch này có 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, được gộp nhóm trong 3 tuần, mỗi tuần 10 ngày gọi là décades. 5 hay 6 ngày dôi ra là cần thiết để xấp xỉ với năm chí tuyến được đặt sau các tháng vào cuối mỗi năm. Một chu kỳ bốn năm kết thúc vào ngày nhuận được gọi là Franciade. Nó bắt đầu từ điểm thu phân:
Lịch Iran/Ba Tư, hiện tại được sử dụng tại Iran và Afghanistan, cũng có 12 tháng. Các tên gọi tiếng Ba Tư được ghi trong ngoặc.
Lịch Hồi giáo cũng có 12 tháng. Chúng được đặt tên như sau:
Lịch Hindu có các hệ thống đặt tên gọi khác nhau cho các tháng. Các tháng trong âm lịch Hindu là:
Chúng cũng là các tên gọi sử dụng trong lịch truyền thống Ấn Độ cho các tháng mới được định nghĩa lại.
Các tên gọi tháng trong dương lịch chỉ là tên gọi của các cung hoàng đạo mà Mặt Trời lần lượt đi qua
Lịch Iceland cổ không còn được sử dụng chính thức nữa, nhưng một số lễ hội Iceland vẫn được tính dựa trên lịch này. Nó có 12 tháng, chia ra thành 2 nhóm, mỗi nhóm 6 tháng gọi là các "tháng mùa đông" và các "tháng mùa hè". Lịch này đặc biệt ở chỗ các tháng luôn luôn bắt đầu vào cùng một ngày trong tuần chứ không phải vào cùng một ngày trên lịch. Vì thế Þorri luôn luôn bắt đầu vào ngày thứ sáu đôi khi nằm trong khoảng từ 19 tháng 1 tới 25 tháng 1 (lịch Julius: 9 tháng 1 tới 15 tháng 1), Góa luôn luôn bắt đầu vào ngày chủ nhật trong khoảng từ 18 tháng 2 tới 24 tháng 2 (lịch Julius: 8 tháng 2 tới 14 tháng 2).
Người Hungary cổ dùng lịch 12 tháng và dường như có yếu tố hoàng đạo trong bản chất[3] nhưng cuối cùng đã trở thành tương ứng với các tháng trong lịch Gregory như dưới đây[4]:
Lịch dân sự Ai Cập cổ đại có năm với 365 ngày và chia thành 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, cộng thêm 5 ngày dôi ra (các ngày lễ hội) vào cuối năm. Các tháng chia ra thành 3 "tuần", mỗi tuần 10 ngày. Do một năm của lịch Ai Cập cổ đại ngắn hơn gần một phần tư ngày so với năm theo Mặt Trời và các sự kiện sao "lang thang" trong lịch, nên nó được nhắc tới như là Annus Vagus hay "Năm lang thang".
Lịch Nisga'a trùng với lịch Gregory với mỗi tháng nói tới một kiểu thu hoạch mùa màng được thực hiện trong tháng.
Tháng Gregory | Tháng Ả Rập | ||
---|---|---|---|
Tháng 1 | يناير | كانون الثاني | Kanoon Al-Thani |
Tháng 2 | فبراير | شباط | Shbaat |
Tháng 3 | مارس | اذار | Athar |
Tháng 4 | ابريل | نيسان | Nissan |
Tháng 5 | مايو | أيّار | Ayyar |
Tháng 6 | يونيو | حزيران | Hzeiran |
Tháng 7 | يوليو | تمّوز | Tammuz |
Tháng 8 | أغسطس | اَب | Aab |
Tháng 9 | سبتمبر | أيلول | Aylool |
Tháng 10 | أكتوبر | تشرين الأول | Tishreen Al-Awwal |
Tháng 11 | نوفمبر | تشرين الثاني | Tishreen Al-Thani |
Tháng 12 | ديسمبر | كانون الأول | Kanoon Al-Awwal |
Thực đơn
Tháng Tháng trong các loại lịchLiên quan
Tháng Tháng Tư là lời nói dối của em (anime) Tháng 3 năm 2020 Tháng 2 năm 2020 Tháng 8 năm 2020 Tháng 3 năm 2021 Tháng 1 năm 2020 Tháng 1 năm 2021 Tháng 4 năm 2020 Tháng 10 năm 2020Tài liệu tham khảo
WikiPedia: Tháng http://users.tpg.com.au/etr/rovas/marsigli.html http://www.eudesign.com/mnems/dayspcm.htm http://www.freeweb.hu/magyarcsaladok/honapok_nevei... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Months...